I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Quê hương của su lơ là vùng bờ biển Địa Trung Hải ấm và ẩm. Su lơ là loại rau quí, giá trị dinh dưỡng rất phong phú. Bộ phận được dùng làm thức ăn là toàn bộ phần hoa chưa nở, bộ phận này m, sốp, không chịu được mưa nắng, vận chuyển đường dài bảo quản khó khăn, dễ bị biến chất. Bộ rễ phát triển kém, ăn nông và ít lan rộng, vì thế tính chịu hạn, chịu nước kém.
Do đặc tính của cây su lơ cho nên ở nước ta phạm vi phân bố hẹp, chủ yếu trồng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ- vụ đông xuân và tại Đà Lạt-Lâm Đồng.
Do đặc tính của cây su lơ cho nên ở nước ta phạm vi phân bố hẹp, chủ yếu trồng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ- vụ đông xuân và tại Đà Lạt-Lâm Đồng.
Hiện nay trên địa bàn Đà Lạt cây su lơ trồng được quanh năm. Tuy nhiên, vụ thu đông và vụ đông xuân cây lơ cho năng xuất và phẩm chất cao hơn. Giống lơ nhật đang trồng phổ biến là Milkyway F1 và VL1502 F1 đang dần thay thế giống lơ địa phương bởi đặc tính tốt như thời gian sinh trưởng ngắn hoa nở đồng đều, chất lượng tốt. Giữa hai giống lơ nhật và lơ địa phương có một số đặc tính khác nhau như sau
TT
|
ĐẶC ĐIỂM
|
GIỐNG ĐỊA PHƯƠNG
|
GIỐNG LƠ NHẬT
|
1
|
-Thời gian sinh trưởng
|
4 – 6 tháng
|
2,5 – 3 tháng
|
2
|
- Hình dạng cây
|
- Cây cao, tán rộng
|
- Cây thấp, nhỏ, tán hẹp
|
3
|
- Số lá/cây
|
25 – 35 lá
|
20 – 25 lá
|
4
|
- Trọng lượng trungbình/cây
|
2,5 – 3,5 Kg
|
1,5 – 2,5 Kg
|
5
|
- Đặc điểm nở hoa
|
- Nở lai rai
|
Nở rộ
|
6
|
- Mức độ bông bị thối nhũn
|
- Thấp
|
Cao
|
7
|
- Đặc điểm khác
|
- Nông dân tự để giống
- Mùa mưa trồng ngoài trời ít bị thối bông
|
- Không tự để giống
- Mùa mưa trồng ngoài trời thối bông nhiều
|
II. YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH
1/ Yêu cầu về nhiệt độ: Su lơ thuộc loại cây 2 năm, chịu được lạnh, to thích hợp nhất cho sinh trưởng và phát triển là 15 - 18oc. Từ 25oc trở lên cây sinh trưởng kém, mau hóa già, hoa nở bé. Trái lại ở giai đoạn đang ra hoa nếu to < 10oc hoa lơ nở bé, phẩm chất giảm. Vì thế giai đoạn này nếu gặp lạnh, mưa, cần có biện pháp che phủ, chống rét cho hoa lơ.
2/ Yêu cầu về ánh sáng: Ở thời kì cây con cần nhiều ánh sáng, sau khi bộ lá đã phát triển đầy đủ rồi thì yêu cầu ánh sáng lại giảm đi . Ngày dài rút ngắn sự sinh trưởng và phát triển của su lơ. Khi ra hoa yêu cầu ánh sáng nhẹ mới đạt năng suất và phẩm chất cao. Su lơ không chịu được nóng và ánh sáng trực xạ, to cao và ánh sáng quá mạnh thường làm cho nụ hoa từ màu vàng trắng chuyển sang màu vàng rồi vàng thẫm, cuối cùng biến thành màu nâu.
3/ Yêu cầu về ẩm độ: Su lơ được xếp vào loại cây ưa ẩm. Nếu ẩm độ không khí thấp, nhiệt độ cao, đất lại không đủ ẩm ( dưới 50 - 60 % ) thì hoa nhỏ, năng suất thấp.
Trái lại nếu ẩm độ không khí cao ( trên 90 % ), kết hợp nhiệt độ cao làm hoa dễ bị bệnh vi khuẩn làm thối rễ.Am độ thích hợp từ 70 - 80 % độ ẩm đồng ruộng.
Trái lại nếu ẩm độ không khí cao ( trên 90 % ), kết hợp nhiệt độ cao làm hoa dễ bị bệnh vi khuẩn làm thối rễ.Am độ thích hợp từ 70 - 80 % độ ẩm đồng ruộng.
4/ Yêu cầu đất và dinh dưỡng: Su lơ ưa đất thịt nhẹ, nhiều mùn, có độ pH = 6 - 6,5, yêu cầu lượng phân bón cao, 70 - 75 % lượng chất dinh dưỡng tập trung vào thời kì trải lá và chuẩn bị ra hoa. Vì thế bón thúc cho lơ rất có hiệu quả.
III. Kĩ thuật trồng lơ nhật:
1/ Giống lơ nhật chủ yếu được trồng tại Đà lạt:
Tại Đà lạt, lơ nhật được trồng quanh năm. Tuy nhiên, trong điều kiện vụ đông xuân cây sinh trưởng tốt, dịch hại ít gây hại, năng suất cao, phẩm chất tốt. Vụ hè thu thường bị sâu bệnh gây hại nặng , năng suất thấp. Để hạn chế thiệt hại do sâu bệnh và thời tiết gây ra, một số hộ nông dân đã trồng lơ nhật trong nhà có mái che và đã mang lại kết quả tốt.
a. Giống Milkyway f1 được trồng quanh năm , thời gian sinh trưởng từ 60 - 70 ngày.
b. Giống VL1502 F1, chủ yếu trồng vụ đông xuân, thời gian sinh trưởng 75-85 ngày. Năng suất cao.
Nhìn chung cây lơ thuộc dạng thân cao, lá hẹp hình thìa, phiến lá có răng cưa phân bố đều, răng cưa nông, chời nách ít phát triển, bộ phận sử dụng là các cành và nụ hoa. Su lơ là cây hàng năm, yêu cầu nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng nghiêm ngặt hơn các biến chủng khác.
2. Đất và phân bón.
- Đất: Đất cày bừa kĩ, lên luống 1,2m cả rò rãnh. Nếu mùa mưa lên luống cao
10 - 15cm.
10 - 15cm.
- Phân bón: Lượng phân bón cho 1000m2 như sau: Bón lót 3 - 4 m3phân chuồng,
25 kg N, 20 kg P2O5, 30 kg K2O. Đối với phân vô cơ có thể dùng phân đơn hoặc phân hỗn hợp nhưng phải cân đối theo lượng nguyên chất trên.
25 kg N, 20 kg P2O5, 30 kg K2O. Đối với phân vô cơ có thể dùng phân đơn hoặc phân hỗn hợp nhưng phải cân đối theo lượng nguyên chất trên.
Ví dụ : Lượng phân bón có thể tương đương: 30kg urê, 50kg lân supe, 55kg NPK
20 - 20 - 15, 40kg KCL .
20 - 20 - 15, 40kg KCL .
3. Mật độ- khoảng cách:
Cây sulơ thuộc loại rau có thân cao nên khi trồng phải chú ý điều chỉnh mật độ cho thích hợp. Mặt khác khi xác định mật độ cần nghiên cứu đặc tính của giống và thời vụ trồng.
Khoảng cách thích hợp cho lơ nhật là 40 X 45 cm, mật độ từ 3000 - 3300 cây/1000m2
Khoảng cách thích hợp cho lơ nhật là 40 X 45 cm, mật độ từ 3000 - 3300 cây/1000m2
4. Chăm sóc:
Cây lơ nhật có thời gian sinh trưởng ngắn, hoa nở rộ, bộ phận sử dụng là nụ hoa nhưng chỉ trên cơ sở thân lá phát triển tốt mới cho thu hoạch cao, vì vậy bồi dục bộ lá là khâu kĩ thuật có tác dụng rất quan trọng quyết định đến năng suất, nụ hoa mơi" phân hóa sớm và nhiều.
Nguyên tắc bón thúc cho lơ là bón sớm , bón làm nhiều lần
Nguyên tắc bón thúc cho lơ là bón sớm , bón làm nhiều lần
a. Phân bón:
- Thúc lần 1: 7 - 10 ngày sau trồng xăm nhẹ kết hợp mồi phân Urê từ 10 - 15kg/1000m2.
- Thúc L2: sau trồng 25 - 30 ngày bón thúc phân lần 2 kết hợp vun cao. Lượng phân tương đương khoảng 15 - 20kg Urê, 20 - 25kg NPK, 15 - 20kg KCL.
Chú ý đối với cây lơ do có thân cao, lá nhiều, rễ ăn nông do đó cần vun cao để giữ cho gốc chắc chắn, tránh đổ ngã nhất là khi có gió lớn.
Chú ý đối với cây lơ do có thân cao, lá nhiều, rễ ăn nông do đó cần vun cao để giữ cho gốc chắc chắn, tránh đổ ngã nhất là khi có gió lớn.
- Thúc L3: Sau thúc L2 từ 10 - 15 ngày. Bón nốt lượng phân bón còn lại.
Kết hợp với bón phân qua rễ, cần phun thêm phân bón qua lá để cây hấp thu nhanh và bổ xung đầy đủ các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cây như: Mg, Ca, S, Bo, Zn, Cu…Để cây sinh trưởng tốt và trỗ đồng đều. Trong đó nguyên tố vi lượng Bo là rất quan trọng , nó hạn chế một số bệnh sinh lí như bệnh đen bông.
Kết hợp với bón phân qua rễ, cần phun thêm phân bón qua lá để cây hấp thu nhanh và bổ xung đầy đủ các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cây như: Mg, Ca, S, Bo, Zn, Cu…Để cây sinh trưởng tốt và trỗ đồng đều. Trong đó nguyên tố vi lượng Bo là rất quan trọng , nó hạn chế một số bệnh sinh lí như bệnh đen bông.
b. Tưới nước: Lơ là cây ưa nước, song khả năng chịu úng và mưa nhiều lại rất kém, do đó phải đảm bảo tưới đủ ẩm trong mùa khô, lượng nước tưới phải nhiều, nên tưới vào buổi sáng nhất là khi cây lơ đã ra bông để bông được khô ráo hạn chế nước đọng trên bông làm bông dễ bị thối.
Trong điều kiện mùa mưa, mưa nhiều, ẩm độ cao, nên trồng lơ trong nhà có mái che để hạn chế bệnh hại.
c. Che đậy hoa:
Che hoa là một biện pháp kĩ thuật rất cần thiết trong kĩ thuật trồng sulơ, che hoa là làm cho hoa trắng, mềm, non và ngon. Nếu không che hoa, để nụ hoa chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiệt độ cao và ánh sáng trực xạ thì sẽ làm cho hoa từ màu vàng trắng chuyển sang màu vàng sẫm rồi màu nâu, như vậy sẽ làm giảm giá trị sử dụng. Người trồng lơ rất coi trọng vấn đề này.
Sau khi trồng được khoảng 45 - 50 ngày, khi mà 2 lá ở giữa nhỏ hẳn đi và bắt chéo nhau, đó là dấu hiệu điểm sinh trưởng đã xuất hiện, nụ hoa có đường kính 4 - 5cm thì
tiến hành che hoa. Khi che có thể bẻ những lá phía dưới đậy lên hoa.
tiến hành che hoa. Khi che có thể bẻ những lá phía dưới đậy lên hoa.
Lơ nhật thường nở rộ, do đó biện pháp che hoa ít được chú ý. Vì vậy cần có biện pháp che hoa kịp thời để nâng cao phẩm chất hoa lơ.
d. Phòng trừ sâu bệnh:
Trên cây lơ nhật có rất nhiều sâu bệnh gây hại, song chúng tôi chỉ đề cập đến một số loại sâu bệnh hại chính sau đây:
(1) Sâu tơ ( Plutella xylostella)
Sâu tơ là loài gây hại chính trên cây rau họ thập tự ở cả vùng nhiệt đới và ôn đới. Nó có thể gây hại 39 loại rau khác nhau. Sâu tơ cũng là loại sâu hình thành tính kháng thuốc nhanh nhất. Ở Đà lạt mật độ sâu tơ thường gia tăng và gây hại nặng vào cuối mùa khô - sang đầu mùa mưa ( vào tháng 3 - 4 - 5 ) gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây lơ.
- Trưởng thành thường gọi là sâu bay, con cái có màu sáng, bụng to hơn con đực. Trưởng thành ít bay mà thường di chuyển theo gió, chúng hoạt động mạnh và thường giao phối vào lúc chập tối đến nửa đêm. Do đo" áp dụng biện pháp tưới phun mưa vào lúc chiều tối để cản trở sự giao phối của trưởng thành cũng là một biện pháp phòng trừ tốt.
- Trứng: Thường thì một con cái đẻ từ 50 - 400 trứng.Trứng nhỏ, màu vàng, có hình bầu dục. Trứng đẻ rải rác hoặc thành từng ổ ở mặt dưới lá, trung bình từ 10 - 20 trứng.Trứng từ 4 - 5 ngày thì nở thành sâu non.
- Sâu non: Sâu non có màu xanh nhạt, có 5 tuổi, chúng ăn lá cây chủ yếu là phần thịt lá, khi bị đánh động chúng nhanh nhẹn lẩn trốn hoặc nhả tơ đu mình rơi xuống khỏi mặt lá. Toàn bộ giai đoạn sâu non kéo dài từ 10 - 14 ngày.
- Nhộng: Khi sâu non đẫy sức thì hóa nhộng. Nhộng thon, khi còn non có màu xanh,sau chuyển sang màu vàng, trước khi vũ hóa có màu nâu hoặc nâu đen. Giai đoạn nhộng kéo dài 6 - 8 ngày.Toàn bộ vòng đời của sâu tơ kéo dài từ 20 - 26 ngày tùy theo điều kiện thời tiết khí hậu.
- Sâu tơ ăn và phá hủy bộ lá của cây, khi mật độ sâu cao chỉ còn lại gân lá. Sâu non có thể ăn chồi hoặc búp non làm cho cây không thể phát triển được.
- Thiệt hại trở nên nghiêm trọng khi thời tiết nóng và khô. Tuy nhiên trên cây lơ có bộ lá phát triển, sâu non thường gây hại ở lá già và lá bánh tẻ, do đó thiệt hại không lớn lắm.
- Biện pháp quản lí:
+ Hủy bỏ tàn dư cây trồng giúp giảm mật độ sâu.
+ Tưới phun mưa vào lúc trời chiều tối khi trưởng thành ra rộ cũng là biện pháp phòng trừ sâu tơ tốt để ngăn cản việc giao phối và đẻ trứng của trưởng thành.
+ Theo dõi diễn biến thành phần thiên địch và sâu non, phun thuốc khi sâu còn nhỏ tuổi, không phun thuốc khi mật độ kí sinh,thiên địch cao, khi cây đã có nụ hoa tăng cường sử dụng thuốc vi sinh, thuốc ít độc hại và thuốc có thời gian cách li ngắn. Phải luân phiên thay đổi các loại thuốc khi sử dụng.
+ Khi mật độ sâu cao, sử dụng các loại thuốc thông dụng như: các loại thuốc trừ sâu vi sinh, thuốc diều hòa sinh trưởng Match, success 25EC, Map permethrin 10EC,25EC,…
2. Sâu xám ( Agrotis ypsilon ).
Sâu xám là loại sâu ăn tạp, phá hại hầu hết các loại cây trồng đặc biệt là cây con hay cây mới trồng. Tại Đà lạt sâu xám thường gây hại nặng trên những ruộng mà vụ trước đã trồng cà rốt,khoai tây, ruộng có bờ cỏ rậm rạp. Tuy nhiên việc phòng trừ sâu xám không mấy khó khăn khi người nông dân phòng trừ kịp thời.
- Trưởng thành to đen, thân màu xám, hoạt động vào ban đêm và có thể bay khá xa, trưởng thành đẻ khá nhiều trứng.
- Trứng được đẻ riêng lẻ hoặc theo từng cụm nhỏ xung quanh gốc cây, ở lá hay trên thân cây. Trứng có sọc nổi, lúc mới đẻ có màu vàng nhạt, sau chuyển sang màu kem hoặc màu nâu. Sau 3 - 5 ngày trứng nở.
- Sâu non có màu nâu đen, có đường kẻ màu nâu nhạt ở giữa và hai sọc hai bên. Đầu rất đen với hai điểm trắng. Sâu non thường hoạt động vào ban đêm, ban ngày thì lẩn tránh trong đất hoặc trong rác rưởi, có thể tìm thấy chúng ở độ sâu 12cm. Sâu thường cuộn tròn khi bị động. Sâu non có 5 - 6 tuổi, kéo dài khoảng 28 - 35 ngày.
- Nhộng: Nhộng màu đỏ đậm, dài khoảng 25mm, giai đoạn ngộng kéo dài 7 - 10 ngày Sâu xám chỉ có thể sống trên đất khô, khi ngập úng sâu có thể bị chết. Sâu xám có thể gây hại nặng cho cây giống và cây mới trồng. Ban đêm sâu non chui lên mặt
đất và ăn thân cây sát mặt đất. Ở đất cát, gần bờ hoặc lùm cây rậm rạp thường bị hại nặng.Đất có cỏ rậm rạp là nơi sâu xám trú ngụ nhiều nhất vì con trưởng thành thích những chỗ này để đẻ trứng. Ở ruộng nhiều cỏ, sâu xám gây hại nặng hơn ở những ruộng sạch cỏ.
đất và ăn thân cây sát mặt đất. Ở đất cát, gần bờ hoặc lùm cây rậm rạp thường bị hại nặng.Đất có cỏ rậm rạp là nơi sâu xám trú ngụ nhiều nhất vì con trưởng thành thích những chỗ này để đẻ trứng. Ở ruộng nhiều cỏ, sâu xám gây hại nặng hơn ở những ruộng sạch cỏ.
- - Biện pháp phòng trừ: Nếu có điều kiện tưới ngập nước để tiêu diệt sâu non và nhộng trên những ruộng có nhiều sâu xám.
+ Cày xới để sâ non và nhộng lộ lên làm mồi cho chim và các động vật khác. Đối với những ruộng nhỏ có thể bắt sâu bằng tay.
+ Việc phun thuốc trực tiếp vào gốc cây khi mới trồng cũng có thể diệt được sâu xám nhưng hiệu quả không cao.
+ Khi cần thiết nên phun thuốc vào chiều tối bằng một số loại thuốc thông dụng như Sumialpha 5EC, Sherpa 25EC, …
3. Sâu khoang ( Prodenia litura fabricius ).
Sâu khoang phân bố rất rộng rãi ở nhiều vùng, là loại sâu ăn tạp, có thể gây hại nhiều loại cây trồng khác nhau.
- Trưởng thành: Cánh trước màu nâu vàng, cánh sau màu trắng, ngài có thân dài 16 - 21mm. Trưởng thành thường vũ hóa vào buổi chiều, lúc chập choạng tối thì bay ra hoạt động cho tới từ nửa đêm về trước. Ngài có su tính đối với các chất có mùi chua ngọt và với ánh sáng đèn. Ngài đẻ trứng có tính chọn lọc kí chủ rõ rệt.
- Trứng: Trứng hình bán cầu, khi mới đẻ có màu trắng vàng, sau chuyển dần thành màu vàng tro, tới lúc xắp nở có màu tro tối. Trứng xếp với nhau thành ổ có lông màu nâu vàng phủ ở ngoàì. Trên cây lơ, sâu non thường đẻ trứng thành ổ trên những lá bánh tẻ ở mặt sau của lá, một ổ trứng có tới vài trăm trứng. Sau 5 - 10 ngày trứng nở.
- Sâu non thường tập trung thành từng đám gặm ăn thịt lá và biểu bì mặt dưới lá, chừa lại biểu bì trên và gân lá. Khi sâu lớn dần thì phát tán phá hại và lúc này sâu có thể ăn khuyết lá hoặc cắn trụi lá, chui đục khoét vào bông lơ, chúng thải phân làm điều kiện cho nấm bệnh xâm nhập và phát triển ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất bông lơ. Sâu non đẫy sức có màu nâu đen hoặc nâu tối. Khi mới nở sâu non sống tập trung, khi có động thì bò phân tán ra xung quanh. Sâu lớn lên thì có phản ứng với ánh sáng rõ rệt, ban ngày thường ẩn nấp ở nơi tối hoặc khe đất. Trong những ngày trời râm hoặc mưa nhẹ thì sâu non bò lên cắn phá cây. Thời gian sâu non trung bình 20 - 27 ngày.
- Nhộng: Nhộng hình ống màu nâu tươi hoặc nâu tối. Thời gian phát dục của nhộng từ 10 -18 ngày. Sâu khoang ưa nhiệt độ ấm nóng, ẩm độ cao. Nhiệt độ thích hợp cho các pha phát dục tứ 29 - 30o và ẩm độ thích hợp trên 90%. Trên cây lơ trồng vụ mưa thường bị hại nặng hơn.
Biện pháp phòng trừ:
- Phát hiện kịp thời bắt ổ trứng hoặc sâu non mới nở. Đây có thể là biện pháp thiết thực trong việc phòng trừ sâu khoang.
- Làm đất phơi ải kĩ, xới xáo làm cỏ kịp thời sau khi đã trộng cây.
- Khi cần thiết sử dụng một số các loại thuốc thông dụng như: Pen tac 2EC, Politrin 440EC, Pegasus 500SC.
4. Sâu xanh đục bắp ( Mamestra ).
Sâu xanh đục bắp là loại hình phổ biến, gây hại trên nhiều loại cây trồng và có phạm vi cây chủ rộng.
- Trưởng thành: Con trưởng thành có các cánh trước lốm đốm, có thể có màu xám- xanh lá cây, nâu hoặc đen. Trưởng thành của loại sâu này thường ít thấy vì chúng hoạt động vào ban đêm. Chúng thích đẻ trứng vào những cây lớn hơn là những cây nhỏ.
- Trứng: Con cái đẻ thứng có những khía trên trứng, trứng mới đẻ có màu tra7ng1 sau chuyển sang màu hồng. Trứng được đẻ thành từng nhóm khoảng 50 trứng ở mặt dưới lá và nở thành sâu non trong vòng 6 - 8 ngày.
- Sâu non có 4 tuổi, 3 tuổi đầu màu xanh nhưng sâu tuổi 4 có màu đen hơi nâu và bụng màu xanh vàng. Một số cá thể có thể hoàn toàn chuyển màu đen. Sâu thường cuộn mình lại khi bị động. Giai đoạn sâu non khoảng 25 - 30 ngày.
-
+ Ban đầu sâu non màu xanh ăn trên lá theo nhóm , Sâu non tuổi 4 phân tán và đục vào trong bông.
+ Sâu non xuất hiện với mật độ lớn thì phá trụi các lá ngoài một cách nhanh chóng và đôi khi chúng cũng có thể phá hủy cả những cây còn nhỏ. Một số con đục vào trong bông, thường thì không thấy có cây chết. Hầu hết sự thất thu về năng suất là do sâu non đã thải phân ra làm bông bị nhiễm bẩn làm ảnh hưởng đến phẩm chất sản phẩm.
- Nhộng: Sâu non đẫy sức rời khỏi cây và vùi vào trong đất để hóa nhộng.Nhộng có màu nâu bóng. Giai đoạn nhộng kéo dài khoảng 12 - 15 ngày.
Biện pháp phòng trừ:
+ Cày đất, có thể phơi những con nhộng còn sống trên ruộng dưới ánh nắng mặt trời hoặc để làm mồi cho các sinh vật khác.
+ Thông thường, khi mật độ sâu cao, sự gây hại của sâu chỉ có thể gây ra thiệt hại cho cây trồng khi sâu non ở tuổi 4. Vì vậy thật là lí tưởng khi phòng trừ sâu ở trước tuổi 4. Vì sâu ăn theo nhóm cho đến tận tuổi 4 nên phải theo dõi đồng ruộng thường xuyên để phòng trừ cho kịp thời.
+ Cần phát hiện sớm, phun những loại thuốc nội hấp, lưu dẫn thông dụng như: Regent 800WP, Pegasus 440 ND, Peran 10EC, 50EC …để phòng trừ.
5. Bệnh sương mai ( Peronospora parasitica ).
Đây là một bệnh nấm đặc biệt gây hại trong giai đoạn vườn ươm và cả trong thời kì sản xuất, bệnh nặng gây thiệt hại nghiêm trọng ảnh hưởng lớn tới năng suất và phẩm chất sản phẩm.
- Trong giai đoạn vườn ươm : Ở thời kì đầu là các đốm nhỏ màu vàng nhạt phát triển trên các lá và các lá mầm của cây con trong vườn ươm. Các đốm này sau chuyển sang màu nâu. Khi thời tiết ẩm ướt, có đám mốc màu trắng xốp xuất hiện ở mặt dưới lá. Các đám mốc đó chính là các bào tử của nấm bệnh. Những diện tích lá chết xuất hiện trong vùng vàng ở chóp lá, thường có hình lốm đốm.
- Triệu chứng bệnh trên các cây lớn là những vùng màu nâu vàng giữa những gân lá chính. Một lần nữa, trong điều kiện thời tiết ẩm ướt các đốm mốc trắng xốp của nấm xuất hiện ở mặt dưới lá. Các lá bị nhiễm nặng ẩm ướt có màu vàng đen. Bệnh nặng có thể gây ra hàng loạt các đốm đen lõm khác nhau về kích cỡ từ những chấm nhỏ đến những diện tích lớn hơn và có thể làm cho cây bị thối lũn vi khuẩn.
- Nguồn gốc và sự truyền lan: Nấm lan truyền qua đường hạt giống và có thể sống trong rễ và trong những bộ phận bị bệnh. Trên cây họ thập tự, khi các rễ bắt đầu hình thành, nấm cũng phát triển và theo mầm mới mọc lên mặt đất.
- Sợi nấm có thể xâm nhiễm vào lá qua các lỗ khí khổng và phát triển trong các mô thực vật. Bào tử lại phát triển trên bề mặt lá để rồi lại giải phóng ra các bào tử. Nếu điều kiện thời tiết thuận lợi, các bào tử nảy mầm chỉ trong một vài giờ rồi xâm nhiễm vào cây mới.
- Nhiệt độ tối thích cho bệnh phát triển là 15 - 18oc kèm theo độ ẩm không khí cao. Am độ cao thường xuất hiện trong mùa mưa, trong thời gian có nhiều sương, mật độ trồng dày.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Sử dụng giống chống bệnh.
+ Không nên trồng với mật độ quá dày, vì nếu trồng dày sẽ làm ẩm độ trong ruộng cao tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm nhập của bệnh. Không nên tưới vào buổi chiều tối.
+ Bón phân cân đối, tăng cường bón Kali.
+ Khi bệnh chớm xuất hiện, cần phun sớm bằng các loại thuốc thông dụng như: Ridomil 72MZ, Score 250 EC, Topcin M…để hạn chế sự phát triển của bệnh.
6. Bệnh thối gốc ( Phoma lingam ) .
Đây là bệnh nấm được gọi là bệnh thối mục, thường làm khuyết cây gây thiệt hại lớn tới năng suất. Có những điểm nhiễm nặng thiệt hại lên tới 30 - 40%.
- Triệu chứng: Các triệu chứng ban đầu là những vết nứt thối trũng xuất hiện trên gốc thân cây và sau này có thể xuất hiện trên lá có hình đốm tròn màu nâu. Những cây bị nhiễm có kích thước nhỏ hơn. Các vết thối mục lan rộng và bao lấy thân, hầu như ở mặt đất, làm cho cây bị héo và đổ. Thân cây khô và hóa gỗ, mô cây chuyển màu đen.
+ Trong giai đoạn tiếp theo của bệnh, trên vết bệnh xuất hiện túi bào tử màu đen dễ phân biệt.
+bệnh có thể xâm nhiễm cả cây con và cây lớn. Nấm có thể xâm nhiểm vào trong cây khi hạt giống nảy mầm . dấu hiệu đầu tiên xuất hiện trên lá mầm, nấm sản sinh ra nhiều bào tử trên những cây con và những cây này có khả năng gây ra nhiều sự sâm nhiễm tiếp theo.
+bệnh có thể xâm nhiễm cả cây con và cây lớn. Nấm có thể xâm nhiểm vào trong cây khi hạt giống nảy mầm . dấu hiệu đầu tiên xuất hiện trên lá mầm, nấm sản sinh ra nhiều bào tử trên những cây con và những cây này có khả năng gây ra nhiều sự sâm nhiễm tiếp theo.
+ Nguồn gốc và sự lây lan: Nấm có thể tồn tại trong hạt giống và trong tàn dư cây bệnh. Trong tàn dư cây bệnh nấm có thể tồn tại tới 3 năm., nếu các cây bị bệnh không được dọn sạch khỏi ruộng thì nấm có thể dễ dàng truyền lan sang các cây bên cạnh. Sự lan truyền trên đồng ruộng có thể nhờ nước, nhờ gió, dụng cụ lao động, cây bệnh được mang từ nơi này sang nơi khác trong ruộng.
+ Các vết thương sây xát có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nấm xâm nhập và phát triển.
Một vài cây con bị nhiễm từ vườn ươm có thể dễ dàng xâm nhập sang nhiều cây khác.
- Tốc độ sinh trưởng phát triển của nấm trong cây phụ thuộc vào nhiệt độ. Dưới 10oc và trên 28oc nấm sinh trưởng kém. Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển từ 15 - 20oc, nấm cần ẩm độ không khí cao hoặc mưa là điều kiện cần thiết cho bào tử nẩy mầm và phát triển.
Một vài cây con bị nhiễm từ vườn ươm có thể dễ dàng xâm nhập sang nhiều cây khác.
- Tốc độ sinh trưởng phát triển của nấm trong cây phụ thuộc vào nhiệt độ. Dưới 10oc và trên 28oc nấm sinh trưởng kém. Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển từ 15 - 20oc, nấm cần ẩm độ không khí cao hoặc mưa là điều kiện cần thiết cho bào tử nẩy mầm và phát triển.
- Biện pháp phòng trù: Dùng hạt giống sạch bệnh, nên sử lí hạt giống trước khi gieo bằng nước nóng 50oc trong 30 phút.
+ Không trồng cây con bị nhiễm bệnh ra ngoài ruộng sản xuất.
+ Tránh tưới phun mưa vào buổi tối sẽ làm cho giọt nước đọng lại trên lá và trên bông sẽ tạo điều kiện cho nấm bệnh phát triển.
+ Vệ sinh đồng ruộng triệt để, nhổ bỏ cả gốc những cây bị bệnh mang tiêu hủy.
+ Phun phòng bệnh sớm ngay từ giai đoạn cây con bằng các loại thuốc thông dụng như: Ridomil 72MZ, Validamicin, Monceren …để phòng bệnh. Nên phun kĩ cho phần gốc tiếp xúc được với thuốc.
+ Phun phòng bệnh sớm ngay từ giai đoạn cây con bằng các loại thuốc thông dụng như: Ridomil 72MZ, Validamicin, Monceren …để phòng bệnh. Nên phun kĩ cho phần gốc tiếp xúc được với thuốc.
+Xử lí CuSO4 liều lượng 2,5 - 3kg/1000m2 trên ruộng bị nhiễm bệnh.
+ Luân canh cây trồng triệt để với các cây khác họ để hạn chế nguồn bệnh.
Trong biện pháp phòng trừ sâu bệnh trên cây lơ nhật nhất là trong điều kiện mùa mưa cần chú ý đến bệnh thối bông do điều kiện thời tiết mưa nhiều, ẩm độ cao, vì thế để hạn chế thiệt hại, cần trồng lơ trong nhà có mái che để giảm bểnh.
Khi lơ đã có bông không được dùng thuốc hóa học để đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
7. Thu hoạch: Thời gian thu hoạch phụ thuộc vào nhiệt độ và giống. Trong điều kiên bình thường thì sau khi có nụ từ 7 - 10 ngày là có thể thu hoạch được. Thu quá sớm thì năng suất giảm, nếu thu muộn thì nụ hoa sẽ nở làm giảm năng suất và phẩm chất sản phẩm.
KS. Trần Thị Cúc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét